Tuesday, November 22, 2011                       trang chính  ||    lưu trữ    ||   liên lạc

 

Luận về tính chính thống của nhà cầm quyền csvn hiện nay

        Tác giả vô danh là gốc đạo

        Noăn bào trăm họ ấy giềng Người.

           Lư Đông A

Tùy theo sự khác nhau giữa các lănh vực: tôn giáo, y học, vơ học, văn, thi, nhạc, họa, căn bản pháp lư của vương quyền v.v… hai chữ “chính thống” được giải thích bằng nhiều từ ngữ phức tạp, khi rơ ràng, khúc chiết, khi mơ hồ giữa chính và tà. Từ đó, “chính thống” trở thành một mê hồn trận của bàn cờ ngôn ngữ.

Nói chung nhất: Chính là đúng, là sự thực, là công lư. Thống là sự đ̣i hỏi cái chính kia phải đựơc nh́n thấy như một sợi chỉ xuyên suốt: xuất phát từ rễ, chạy lên thân, tiến măi tận ngọn. Thống bám sát lấy chính làm cho chính không thể lạc lối vào tà, làm cho chính là tiếng nói đanh thép rằng: “Nửa ổ bánh ḿ vẫn là bánh ḿ. Nhưng một nửa sự thực không phải là sự thực”. Đó là ư nghĩa cốt lơi của thuật ngữ chính thống.

Bây giờ, chúng ta hăy đi t́m lời giải cho câu hỏi: Thế nào là một chế độ chính trị chính thống? Trên địa bàn chính trị, cái “chính” gồm ba “chính”:

Chính (1): công lư rằng đất nước là của toàn dân, toàn dân có quyền và có nghĩa vụ quyết định vận mệnh của đất nước thông qua việc tuyển chọn và ủy nhiệm giới lănh đạo quốc gia để giới này điều hành việc nước. Chính(1) là xuất phát điểm của chính. Đây là phần rễ của chính. Phần rễ của nhà cầm quyền Hà Nội là những cuộc bầu cử gian trá. Bầu cử theo kiểu “đảng cử, dân bầu, công an canh chừng”. Như vậy là không chính.

Chính (2): sau khi nhận được sự ủy nhiệm của toàn dân, giới lănh đạo phải thường xuyên căn cứ vào ư dân trong mọi tác vụ tổ chức và điều động xă hội. Yêu nước là yêu theo ư dân, yêu theo ḷng dân, làm theo ư dân, làm theo ḷng dân chứ không là chạy theo ư muốn của cá nhân/tập thể độc tài. Đây là phần thân của chính. Phần thân của nhà cầm quyền Hà Nội nên được h́nh dung như h́nh ảnh của một chiếc xe đ̣ đang chạy trên xa lộ: tài xế là đảng CSVN, tài xế này lái xe theo mệnh lệnh của ông chủ Trung Quốc ngồi ngay bên cạnh, chứ không theo ḷng dân, ư dân. Như vậy là không chính.

Chính (3): trọng tâm của công việc tổ chức và điều hành xă hội là kỹ thuật và nghệ thuật giúp xă hội giải trừ mọi mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể, giữa các tập thể với nhau, nhất là giữa quốc gia với các thành viên trong cộng đồng quốc tế. Với tư cách những người thụ ủy của toàn dân, giới lănh đạo quốc gia bao giờ cũng phải giải quyết các loại mâu thuẫn vừa kể theo nguyên tắc: Quyền lợi dân tộc là kim chỉ Nam, là đối tượng tối cao của mọi công tác phục vụ. Đây là phần ngọn của chính. Phần ngọn của chế độ CSVN là sự việc rằng: tất cả mâu thuẫn quốc nội cũng như quốc tế đều được đảng CSVN giải quyết theo nguyên tắc: quyền lợi của Trung Quốc là thượng tôn, kế đến là quyền lợi của đảng CSVN. Như vậy là không chính.

Ba chính vừa được diễn tả ở trên họp lại với nhau thành thống nhất chính, gọi tắt là chính thống. Nội dung trung tâm của mỗi chính trong ba chính đều là ư dân. Thế nào là ư dân? Dân tộc tính và nhân loại toàn tính thống nhất. V́ vậy ư dân chính là ư muốn của loài người. Lịch sử loài người đă ghi nhận: Chế độ nô lệ man rợ, chế độ quân chủ khắc nghiệt, chế độ độc tài các loại: Quốc Xă Đức, Phát Xít Nhật, Cộng Sản quốc tế , quân phiệt, tài phiệt…đều bị lịch sử đào thải không khoan nhượng. Những đào thải kia là sự khẳng định dứt khoát rằng: lịch sử là lịch sử của những đấu tranh bất tận nhằm bảo vệ và phát triển Nhân Đạo (ḍng sống Người). Đó là tư tưởng tinh ṛng của Duy Dân Sử Quan mà cũng là Việt Tộc Sử Quan. Dân tộc Việt cùng với mọi dân tộc khác không thể tách rời khỏi nhân loại, nhất là vào giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay.

Trong thực tiễn của đời sống, không phải bao giờ và ở đâu Duy Dân Sử Quan và Việt Tộc Sử Quan cũng toàn thắng. Rất nhiều giai đoạn, lịch sử bị vo tṛn, bóp méo, bị ép rẽ phải, rẽ trái, thậm chí bị cưỡng bức di chuyển ngược chiều. Tuy nhiên, muốn thở theo nhịp thở của lịch sử, muốn hiểu được những can trường của lịch sử, Con Người hăy nh́n vào đường dài của lịch sử. Trên con đường bất tận với ngút ngàn gian khổ kia, lịch sử bao giờ cũng thường hằng, âm thầm nhưng quyết liệt theo đuổi và bám sát hướng tiến nghiêm chỉnh của lịch sử: hướng bảo vệ và phát triển Nhân Đạo. Đây là tâm t́nh của lịch sử. Đây là hướng tiến chính thống của lịch sử. Đây là Sử Hồn là Đáy Ḷng của dân tộc, của nhân loại, của nhân dân hiểu theo nghĩa thực tiễn, cụ thể: con người (nhân) trong xă hội (dân).

Như vậy chế độ chính trị chính thống hiểu theo nghĩa ba chính thống nhất và hướng tiến chính thống của lịch sử đều lấy ư dân làm điểm hội tụ. Nói rơ hơn: chế độ chính trị chính thống là chế độ đưa dẫn quốc gia di chuyển đúng với Việt Tộc Sử Quan, đúng với hướng tiến chính thống của lịch sử. Chân lư vừa tŕnh bày chỉ là lư luận chính trị. Làm thế nào biến lư luân chính trị hữu lư kia thành hành động sống cụ thể của sinh hoạt xă hội ? Nhà Tư Tưởng Lư Đông A đă chỉ ra rằng: Để cho quốc gia có thể tồn tại trong an b́nh và thịnh vượng trên hướng tiến chính thống của lịch sử, chế độ chính trị chính thống cần thực hiện chính sách Lục Dân: 1) Phục hưng Dân Tộc. 2) Phát triển Dân Đạo. 3) Quảng đại Dân Sinh. 4) Sáng hóa Dân Văn. 5) Chính sức Dân Trị. 6) Trọn vẹn Dân Vực. Đi vào địa bàn cấu trúc xă hội Lục Dân chính là kim chỉ Nam vi diệu giúp giới kiến trúc sư xă hội h́nh thành bốn lực đẩy trọng yếu làm cho quốc gia cất cánh tiến bộ:

Lực đẩy một: Luật Pháp chính thống. Đây là luật pháp trị (Rule of Law). Luật này là luật của người dân, do người dân làm ra (thông qua quốc hội chân chính). Nó chỉ nhằm bảo vệ người dân chống lại mọi h́nh thức bất công. Toàn dân, kể cả những chức quyền cao cấp nhất, đều phải tuân phục luật pháp. Trong khi đó luật pháp quyền (Rule by Law) là luật do chế độ độc tài kiểu CSVN nhào nặn ra. Nó là công cụ giúp chế độ Hà Nội tung cánh tham ô trong tự do và “ổn định”, hạ cánh tham ô trong thịnh vượng và an toàn cho mỗi đại gia Đỏ. Luật pháp của chế độ CSVN hiện nay là luật pháp quyền chứ không là luật pháp trị.

Lực đẩy hai: Giáo Dục chính thống. Hệ thống giáo dục này phản đối kiểu giáo dục nhồi sọ, giáo dục đào tạo đảng viên cho đảng CS hoặc đào tạo chuyên viên ngoan ngoăn cho chế độ tài phiệt các loại. Giáo dục chính thống có mục tiêu đào tạo những con người trí thức đích thực, trí thức có tư duy độc lập, sáng tạo, khách quan, trên cơ sở triết học, sử học, khoa học thống nhất. Sau cùng giáo dục chính thống là một công tŕnh giáo dục sinh động và toàn diện. Nó bao gồm giáo dục học đường và giáo dục nhân quần xă hội thông qua vô số phương tiện truyền thông khác nhau. Giáo dục chính thống nhằm giúp toàn dân học và hành chính sách Lục Dân. Có như vậy nội lực dân tộc mới hồi sinh. Việt Nam mới thực sự độc lập, nhất là độc lập với Tàu.

Lực đẩy ba: Kinh tế quốc dân. Đây là guồng máy kinh tế không cho phép tư bản nhà nước hay tư bản tư nhân lộng hành. Nó đặt trọng tâm trong nỗ lực tạo môi trường kinh tế pháp lư giúp cho mọi người dân đều được b́nh đẳng về cơ hội (equality of opportunity), nền tảng của b́nh đẳng nghĩa vụ và b́nh đẳng quyền lợi, trên địa bàn sinh hoạt kinh tế. Đặc biệt kinh tế quốc dân triệt để triệt tiêu kinh tế quốc doanh kiểu “Kinh tế Vinashin” của nhà đương quyền Hà Nội.

Lực đẩy bốn: Quốc pḥng và ngoại giao độc lâp nhưng liên lập. Trung Quốc hiện nay là “tuyệt đối địch nhân” (thuật ngữ của Lư Đông A) của dân tộc ta. Việt Nam không thể độc lập dưới áp lực và sự bành trướng của Bắc Kinh như đảng và nhà nước CSVN hiện nay đang phải chịu. Một ḿnh nước ta không có khả năng giữ vững độc lập trước Đại Hán mới. Chỉ có liên lập quốc tế mới có thể giúp Việt Nam sống b́nh đẳng và hiên ngang bên cạnh Trung Quốc. Muốn có liên lập nghiêm chỉnh và chặt chẽ, chế độ cầm quyền phải có uy và lực. Chế độ Hà Nội vừa hủy hoại nội lực dân tộc, vừa tạo rất nhiều ô danh trên bang giao quốc tế, vụ Vinashin là một thí dụ điển h́nh cực lớn. Vả lại làm sao Hà Nội có thể liên lập trong khi mọi biến động của quốc gia Việt Nam đều bị đảng CSVN tâu tŕnh chi tiết cho Trung Quốc?

Tóm lại có ba phương cách để xác định một chế độ chính trị có tính chính thống hay không:

Một là t́m hiểu phẩm chất chính trị của chế độ chính trị từ rễ tới thân lên ngọn.

Hai là vận dụng sử quan của Việt Tộc để nh́n xem chế độ chính trị có đưa đất nước vận hành theo đúng hướng tiến chính thống của lịch sử hay không?

Ba là khảo sát xem tính chính thống của chế độ chính trị có hay không trên bốn địa bàn trọng yếu của guồng máy cầm quyền: luật pháp, giáo dục, kinh tế, ngoại giao-quốc pḥng.

Mang ba phương cách xác định tính chính thống chính trị kể trên so chiếu với sinh mệnh chính trị của đảng CSVN, không ai không nhận biết chế độ Hà Nội là một chế độ chính trị tuyệt đối phi chính thống. Như vậy tất cả người Việt Nam đều có quyền và nghĩa vụ vận dụng mọi phương cách để ép buộc nhà đương quyền CSVN phải bị thay thế bởi một chế độ chính trị chính thống.

Đó là nội dung cốt lơi của công cuộc đấu tranh cho công lư tại Việt Nam ngày nay vây.

14/11/2011

© Đỗ Thái Nhiên