Wednesday, May 02, 2012                       trang chính  ||    lưu trữ    ||   liên lạc

 

Làm cách mạng không phải để dựng nên một nhà nước độc tài

 

Phỏng vấn Huỳnh Nhật Hải (trái) , Huỳnh Nhật Tấn (Phải)

 

Phạm Hồng Sơn (pro&contra) thực hiện

 

pro&contra: Hai anh em, ông Huỳnh Nhật Hải sinh năm 1943, ông Huỳnh Nhật Tấn sinh năm 1946, là những người, vào cuối năm 1988, đă cùng nhau tự ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đồng thời từ bỏ luôn những chức vụ đang đảm nhiệm kèm theo những tiềm năng rất lớn về quyền lực, quyền lợi: Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm Thành ủy viên (đối với ông Huỳnh Nhật Hải) và Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy viên dự khuyết (đối với ông Huỳnh Nhật Tấn). Điều ǵ đă khiến hai đảng viên cộng sản đầy tiềm năng của một gia đ́nh có truyền thống cách mạng từ trước năm 1945 lại có quyết định chia tay cách mạng khi sự nghiệp “cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước”đă thành công hoàn toàn?

 

Phạm Hồng Sơn: Hai ông có thể cho biết con đường nào đă đưa các ông đến với ĐCSVN?

 

Huỳnh Nhật Hải: Có thể nói hai anh em chúng tôi đă được “nhuộm đỏ” từ bé. Chúng tôi đă có thiện cảm, tinh thần ủng hộ, và làm những việc có lợi cho những tổ chức của cách mạng như Việt Minh hay Mặt trận Dân tộc Giải Phóng miền Nam Việt Nam (Mặt trận) ngay từ khi c̣n rất nhỏ tuổi. V́ ba má tôi là một gia đ́nh tư sản ủng hộ Việt Minh tại Đà Lạt từ trước năm 1945. Ba tôi là hội viên Công hội Đỏ và tham gia cướp chính quyền tại Đà Lạt vào năm 1945 và sau đó trở thành đảng viên bí mật của Đảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi lúc đó của ĐCSVN). Hai anh trai tôi là những người đi tập kết ra Bắc sau năm 1954.

 

Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói là ngay từ nhỏ, mở mắt ra là chúng tôi đă được nghe, được thấy, được sống trong tinh thần của cách mạng, tôi cứ tạm gọi là “cách mạng” đi. Đó là những năm thơ ấu của chúng tôi ở trong “vùng tự do” liên khu 5, khi gia đ́nh chúng tôi phải tránh sự truy lùng của Pháp từ khoảng cuối 1945 đến năm 1954, và cả thời gian sau đó khi ba má tôi trở lại Đà Lạt (sau Hiệp định Genève) để tiếp tục nhiệm vụ ủng hộ bí mật cho ĐCSVN và Mặt trận dưới h́nh thức là một gia đ́nh tư sản.

 

Phạm Hồng Sơn: Hai ông có nhớ đă có ảnh hưởng nào đến từ ngoài gia đ́nh không?

 

Huỳnh Nhật Tấn: Có, những trí thức như giáo sư, nhà văn, nhạc sĩ có tên tuổi lúc đó mà đi với Việt Minh hay Mặt trận cũng gây cho chúng tôi sự lôi cuốn, cảm hứng âm thầm nhưng rất lớn. Đặc biệt là qua quan sát, tiếp xúc với những cán bộ hoạt động bí mật đă sống ở nhà tôi th́ hai anh em tôi thấy đó là những con người rất đáng khâm phục, họ vừa có tinh thần kỷ luật, chịu đựng, hy sinh rất lớn vừa có những lư tưởng rất cao đẹp là quyết giành lại độc lập cho đất nước và tự do cho dân tộc.

 

Huỳnh Nhật Hải: Một yếu tố nữa cũng làm cho chúng tôi ủng hộ Mặt trận là sự xuất hiện của quân đội Mỹ tại miền Nam. Sự xuất hiện đó làm cho những người như chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm về chủ quyền dân tộc. Chúng tôi cảm thấy là miền Nam đang bị người Mỹ xâm lăng và cần phải chống lại họ và chính quyền thân Mỹ tại miền Nam.

 

Phạm Hồng Sơn: Thời gian từ khi Mặt trận được thành lập (năm 1960) cho tới năm 1975 các ông làm những việc ǵ để ủng hộ “cách mạng”?

 

Huỳnh Nhật Hải: Công việc của cả hai anh em chúng tôi đều cùng có hai giai đoạn khác nhau, trước và sau khi chúng tôi “nhẩy núi”, tức là phải bỏ gia đ́nh để vào tận căn cứ trong rừng sâu để hoạt động. Tôi “nhảy núi” vào đúng mồng 3 Tết Mậu Thân 1968 c̣n em tôi, Huỳnh Nhật Tấn, “nhảy núi” trước đó vài tháng khi đă bị lộ.

 

Huỳnh Nhật Tấn: Trước khi “nhảy núi”, anh em chúng tôi làm công tác liên lạc, vận động trong giới thanh niên, học sinh, sinh viên tại Đà Lạt để thành lập các nhóm, tổ chức, đoàn thể hoặc in, tán phát truyền đơn hay khẩu hiệu đấu tranh cho Mặt trận.

 

Huỳnh Nhật Hải: Sau khi “nhảy núi”, hai anh em chúng tôi, mỗi người một nơi, nhưng đều ở bộ phận công tác phong trào thanh niên học sinh, sinh viên. Anh em chúng tôi thường phải đi vào những “vùng lơm“ (vùng dân cư mà ban ngày do chính quyền Việt Nam Cộng ḥa kiểm soát c̣n ban đêm thuộc về lực lượng của Mặt trận) để bắt liên lạc, tiếp nhận hay vận động ủng hộ về vật chất, tinh thần cho Mặt trận.

 

Phạm Hồng Sơn: Những công việc đó chắc phải rất mạo hiểm và hết sức khó khăn?

 

Huỳnh Nhật Tấn: Đúng thế, chúng tôi phải rất kiên tŕ, khôn khéo trong công tác vận động và không phải lần vận động nào cũng thành công. Cả hai anh em chúng tôi cũng đă bị phục kích hoặc chạm trán với lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng ḥa, nhưng rất may cả hai chỉ bị thương nhẹ trong một, hai lần.

 

Phạm Hồng Sơn: Sau 30/04/1975 các ông được giữ ngay chức Phó Chủ tịch UBND Thành phố hoặc Phó Giám đốc Trường Đảng?

 

Huỳnh Nhật Hải: Không phải như thế. Sau 30/04/1975 tôi tiếp tục công tác ở Thành đoàn, sau đó mới chuyển qua công tác chính quyền. Năm 1977 tôi được kết nạp Đảng. Năm 1979 làm Chủ tịch khu phố I Thành phố Đà Lạt, rồi sau khi đi học Trường Đảng ở Tây Nguyên trong một năm đến năm 1981 là tôi trở thành Phó Chủ tịch UBND Thành phố Đà Lạt, là Thành ủy viên.

 

Huỳnh Nhật Tấn: Tôi th́ được kết nạp Đảng từ năm 1972 sau khi “nhảy núi”. Ngay tháng 10/1975 tôi đă được chọn vào số cán bộ đầu tiên gửi ra Bắc học ở Trường Tuyên huấn Trung ương ở khu Cầu Giấy, Hà Nội trong 3 năm rồi trở về giảng dạy môn kinh tế chính trị tại Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng. Và sau lần ra học tiếp ở Hà Nội tại Trường Tuyên Huấn Trung Ương trong 03 năm nữa, đến năm 1986 tôi được bổ nhiệm vào chức Phó Giám đốc trường Đảng tỉnh Lâm Đồng, đồng thời được cơ cấu vào cấp Tỉnh ủy, là Tỉnh ủy viên dự khuyết.

 

Phạm Hồng Sơn: Một cách ngắn gọn, lư do ǵ đă khiến hai ông gần như đồng thời quyết định từ bỏ Đảng kiêm các chức vụ đó?

 

Huỳnh Nhật Tấn: Tôi c̣n nhớ trong lá đơn xin ra khỏi Đảng lúc đó tôi có viết một câu: “Tôi không tin ĐCSVN có thể lănh đạo đưa đất nước đạt được những điều tốt đẹp như Đảng thường nói.”

 

Huỳnh Nhật Hải: C̣n trong lá đơn của tôi viết sau ông em tôi một vài tháng, tôi nhớ đă viết là: “Tôi không c̣n động cơ để phấn đấu cho mục tiêu và lư tưởng của Đảng nữa.” Nhưng thực sự trong thâm tâm th́ cũng giống như ông em tôi đă nói ở trên. Tôi không tin ĐCSVN nữa.

 

Phạm Hồng Sơn: Quá tŕnh đi đến sự bất tín đó diễn ra như thế nào?

 

Huỳnh Nhật Hải: Đó là một quăng thời gian kéo dài khoảng 5-7 năm, thông qua những quan sát, t́m hiểu, trao đổi, bàn bạc và trằn trọc từ mỗi bản thân và gần như chỉ giữa hai anh em chúng tôi.

 

Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói chúng tôi đi đến sự bất tín vào ĐCSVN là dựa vào những ǵ chúng tôi thấy, chúng tôi gặp trên thực tế hơn là từ vấn đề lư luận.

 

Phạm Hồng Sơn: Những “thực tế” nào quan trọng nhất khiến hai ông nhận thức lại ĐCSVN?

 

Huỳnh Nhật Tấn: Đó chính là những chính sách về quản lư xă hội, điều hành kinh tế và việc tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của người dân của ĐCSVN. Về quản lư xă hội, ĐCSVN đă không quản lư bằng pháp luật mà bằng sự tùy tiện, áp đặt, gần như hoàn toàn chỉ dựa theo các chỉ thị, ư muốn từ lănh đạo Đảng. Ví dụ việc tịch thu nhà cửa, tài sản hay đưa đi “học tập cải tạo”, thực chất là bỏ tù con người, đều không dựa trên pháp luật hay xét xử của ṭa án. Điều hành kinh tế th́ lúc đó chúng tôi thấy những chính sách rất kỳ cục và phản khoa học, ví dụ như có những chỉ thị là Đà Lạt phải sản xuất bao nhiêu rau hay các huyện khác phải sản xuất bao nhiều ḿ[i] mà không cần biết khả năng và lợi thế về thổ nhưỡng, thói quen canh tác của người dân hoặc việc giao quyền lănh đạo kinh tế không dựa vào chuyên môn, kinh nghiệm mà lại dựa vào thành phần giai cấp và sự gắn bó với Đảng. Về các quyền tự do dân chủ của người dân, càng ngày chúng tôi càng thấy thực tế lại tồi tệ và khó khăn hơn rất nhiều so với thời Việt Nam Cộng ḥa. Ví dụ như khi hoạt động trước 1975, chúng tôi đă từng cho một số viên chức chính quyền đọc cả cương lĩnh của Mặt trận nhưng những người đó không coi chúng tôi là thù địch, họ coi việc khác biệt quan điểm là chuyện hết sức b́nh thường. Nhưng sau năm 1975 mọi thứ không như thế nữa, tất cả mọi hoạt động, kể cả trong tư tưởng, mà khác với quan điểm của ĐCSVN th́ đều không được chấp nhận. Báo chí tư nhân, biểu t́nh, băi công, băi thị đă hoàn toàn bị cấm ngặt mặc dù những bất công, nhu cầu lên tiếng của xă hội hết sức bức bối. Có thể nói điều lớn nhất để chúng tôi nhận thức lại ĐCSVN là sự độc tài toàn trị dựa trên bạo lực và không tôn trọng những quyền căn bản của người dân.

 

Phạm Hồng Sơn: Các ông đă quen biết những nhân vật như ông Hà Sĩ Phu hay ông Mai Thái Lĩnh,…những cư dân tại Đà Lạt lúc đó chưa?

 

Huỳnh Nhật Hải: Chúng tôi chưa biết ông Hà Sĩ Phu, c̣n ông Mai Thái Lĩnh th́ chúng tôi đă biết nhau từ hồi cùng “nhảy núi” nhưng sau 30/04/1975 chúng tôi gần như chưa trao đổi hay bàn luận ǵ với nhau cả. Anh em chúng tôi trước khi quyết định bỏ về đă nói với nhau là “chúng ta đi làm cách mạng không phải để xây dựng nên một nhà nước chuyên chính độc tài như thế này.”

 

Phạm Hồng Sơn: Gia đ́nh, những người thân và bạn bè đồng chí của các ông có phản ứng ǵ trước quyết định đó?

 

Huỳnh Nhật Hải: Lúc đó ba má tôi đều đă qua đời nhưng chúng tôi tin rằng nếu c̣n sống ba má tôi cũng ủng hộ việc từ giă ĐCSVN của chúng tôi. Hai bà xă của chúng tôi ủng hộ hoàn toàn quyết định về nhà tự làm ăn của chúng tôi.

 

Phạm Hồng Sơn: Thế c̣n hai anh trai, những người đă đi tập kết sau 1954, và những đồng chí thân quen của hai ông?

 

Huỳnh Nhật Tấn: Anh trai cả của chúng tôi th́ gần như không có ư kiến ǵ, c̣n người anh trai thứ hai th́ không đồng ư. C̣n những đảng viên đồng sự khác và các cấp lănh đạo lúc đó hoàn toàn ngạc nhiên, gần như tất cả mọi người đều khuyên chúng tôi xem xét lại. Có người lúc đó đă nói với tôi là nếu về th́ cuộc sống sẽ rất khó khăn, nhưng tôi xác định trong ḷng là trước đây khó khăn nguy hiểm như thế mà c̣n chịu được th́ lẽ nào bây giờ lại không.

 

Phạm Hồng Sơn: Khi “trằn trọc” để đi đến quyết định cuối cùng, h́nh ảnh hay tư tưởng của lănh tụ Hồ Chí Minh có vấn vương trong “trằn trọc” đó?

 

Huỳnh Nhật Tấn: Có. Chúng tôi lúc đó cũng thấy cần phải xem lại cả ông Hồ Chí Minh – lănh tụ, người sáng lập ra ĐCSVN.

 

Phạm Hồng Sơn: Các ông thấy thế nào?

 

Huỳnh Nhật Hải: Sau khi cùng t́m hiểu, trao đổi, bàn luận chúng tôi nhận thấy t́nh trạng mất tự do, phi dân chủ hay có thể nói là cuộc sống ḱm kẹp, đau thương của nhân dân, của giới trí thức sau chiến thắng 30/04/1975 ở miền Nam hoàn toàn là sự lặp lại y nguyên t́nh trạng ở miền Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 – thời kỳ mà ông Hồ Chí Minh vẫn hoàn toàn ở trên đỉnh cao quyền lực.

 

Huỳnh Nhật Tấn: Tôi đă từng tự hỏi là mục tiêu sâu xa của ông Hồ Chí Minh là ǵ? Với những ǵ lịch sử đă diễn ra khi ông Hồ Chí Minh c̣n sống th́ tôi thấy mục tiêu của ông Hồ Chí Minh v́ quyền lực là chính, c̣n mục tiêu độc lập cho đất nước hay tự do, dân chủ cho dân tộc, cho xă hội Việt Nam đă bị ông Hồ Chí Minh coi nhẹ. Hai mục tiêu tốt đẹp đó chỉ là những ngọn cờ để ĐCSVN lôi kéo, tập hợp quần chúng và giới trí thức cho mục đích giành quyền lực cho ĐCSVN. Thực tế chính quyền dưới thời ông Hồ Chí Minh đă biểu hiện đi ngược lại hoàn toàn hai mục tiêu tốt đẹp đó, độc lập cho dân tộc và tự do, dân chủ cho nhân dân.

 

Phạm Hồng Sơn: Vâng, về vấn đề tự do, dân chủ cho nhân dân th́ đă rơ, nhưng c̣n về độc lập dân tộc, xin ông nói rơ thêm?

 

Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói ông Hồ Chí Minh đă đưa đất nước thoát khỏi sự phụ thuộc, đô hộ của người Pháp nhưng lại để đất nước trở lại sự phụ thuộc, khống chế và thôn tính của Trung Quốc cộng sản. Nếu không có sự đồng ư, chủ kiến ngoại giao của ông Hồ Chí Minh th́ không thể có t́nh hữu nghị Việt-Trung như “môi với răng” và cũng không thể có Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Một cách ngắn gọn, có thể nói ông Hồ Chí Minh đă vô t́nh tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm lăng, thôn tính của Trung Quốc cộng sản đối với Việt Nam như chúng ta đang chứng kiến.

 

Phạm Hồng Sơn: Liệu có công bằng không khi t́nh trạng mất độc lập, mất chủ quyền hiện nay qui hết cho Hồ Chí Minh?

 

Huỳnh Nhật Tấn: Đúng là t́nh trạng lâm nguy của đất nước hiện nay không thể qui hết cho ông Hồ Chí Minh. Nhưng bất kỳ một lănh tụ, một nhà sáng lập của một đảng, một tổ chức chính trị nào cũng đều có ảnh hưởng rất căn bản tới tầm nh́n, hành động của các thế hệ kế tiếp, dù xấu hay tốt. Tôi nhớ ngay trong văn kiện, khẩu hiệu của ĐCSVN vẫn luôn khẳng định ông Hồ Chí Minh là người sáng lập, tổ chức, lănh đạo, rèn luyện “Đảng ta”, tức là ông Hồ Chí Minh đă là kiến trúc sư cho mọi chính sách, đường lối của ĐCSVN cũng như thể chế, cung cách quản lư xă hội của ĐCSVN.

 

Huỳnh Nhật Hải: Đúng như thế, theo tôi, mặc dù ông Hồ Chí Minh đă mất rồi nhưng tư tưởng, đường lối chính trị của ông ấy vẫn được tiếp tục kế thừa trong ĐCSVN. Không phải ngẫu nhiên mà ĐCSVN hiện nay vẫn hô hào học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.

 

Phạm Hồng Sơn: Nhưng nhiều người cho rằng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh là rất tốt đẹp, đáng học theo?

 

Huỳnh Nhật Hải: Đúng, rất tốt đẹp và đáng học nếu chỉ căn cứ vào lời nói và khẩu hiệu như ông Hồ Chí Minh đă đề ra. Và đúng là ĐSCVN hiện nay cũng đang thực hiện đúng như thế, các khẩu hiệu, lời nói, mục tiêu của họ hiện nay cũng rất hoặc khá tốt đẹp, nhưng hành động và thực tế th́ lại hoàn toàn ngược lại – cũng như ông Hồ Chí Minh.

 

Huỳnh Nhật Tấn: Nếu chỉ căn cứ vào truyền thống nhân ái của người Việt Nam thông thường thôi th́ cũng thấy đáng lư ra, với cương vị là người có quyền hành cao nhất, ông Hồ Chí Minh phải ra lịnh không được giết hoặc hăm hại ân nhân của ḿnh như vụ xử bắn bà Nguyễn Thị Năm và nhiều người khác trong Cải cách Ruộng đất. Hoặc những vụ bắt bớ, thanh trừng các đồng sự, các ân nhân của ĐCSVN sau này mà không qua xét xử th́ ông Hồ Chí Minh không thể không biết là trái đạo lư. Nếu ông Hồ Chí Minh thực sự là người v́ nước v́ dân th́ sau khi lên nắm quyền, điều đầu tiên ông Hồ Chí Minh phải làm là phải để nhân dân và giới trí thức có nhiều tự do hơn thời thực dân Pháp chớ.

 

Phạm Hồng Sơn: Nếu được sống lại thời tuổi trẻ một lần nữa, các ông có tiếp tục ủng hộ và đi theo Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam hay ĐCSVN?

 

Huỳnh Nhật Hải: Không, không bao giờ.

 

Huỳnh Nhật Tấn: Tôi sẽ phải b́nh tĩnh hơn, t́m hiểu xem họ có ủng hộ và có tư tưởng dân chủ thực sự không, chứ không thể chỉ căn cứ vào lời nói và tuyên truyền của họ. Theo tôi, vấn đề dân chủ phải được đặt cao hơn vấn đề dân tộc v́ chỉ có dân chủ mới giúp cho dân tộc được tự do đúng nghĩa và khi đó đất nước mới có nền độc lập bền vững.

 

Phạm Hồng Sơn: Ngày 30/04/1975 các ông đang ở đâu và cảm xúc như thế nào?

 

Huỳnh Nhật Tấn: Lúc đó tôi đang ở Đà Lạt. Tôi đă trở về Đà Lạt từ ngày 03/04/1975 với tư thế của người chiến thắng.

 

Huỳnh Nhật Hải: Tôi về Đà Lạt sau ông em tôi một ngày, ngày 04/04/1975. Cảm xúc của tôi là sung sướng vô cùng, nhất là khi gặp lại má tôi – má đă tưởng tôi hy sinh từ năm 1971 và đă đưa ảnh tôi lên bàn thờ.

 

Phạm Hồng Sơn: Dịp 30/04 hàng năm vẫn là một trong những ngày lễ lớn của cả đất nước, cảm xúc của các ông ra sao trong những ngày này?

 

Huỳnh Nhật Hải: Buồn. Nếu không có cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai miền trước 1975 th́ dân tộc này không có cái bất hạnh, đau khổ như ngày hôm nay.

 

Huỳnh Nhật Tấn: Buồn. Một ngày quá buồn. Cái chiến thắng 30/04 chỉ đem lại một sự áp bức trên mọi phương diện cho nhân dân, đất nước và lại nặng nề hơn cả thời Pháp thuộc.

 

Phạm Hồng Sơn: Nếu bây giờ vô t́nh hai ông gặp lại một người là cựu viên chức cũ của chế độ Việt Nam Cộng Ḥa và người đó chính là “kẻ thù” của ông trước 1975, điều trước tiên hai ông muốn nói là ǵ?

 

Huỳnh Nhật Tấn: Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đă góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đă vô t́nh đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để bảo đảm tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc th́ tôi cũng đă vô t́nh góp công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là v́ quyền lực tới phá bỏ một chế độ đă được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.

 

Huỳnh Nhật Hải: Bây giờ nh́n lại, con đường chúng tôi đă đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đă đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.

 

Phạm Hồng Sơn: Xin trân trọng cảm ơn ông Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn